Thời Hậu Lương Mã Ân

Thời Hậu Lương Thái Tổ

Năm 907, Chu Toàn Trung soán vị triều Đường, mở đầu triều Hậu Lương, tức Hậu Lương Thái Tổ. Một số quân phiệt triều Đường gồm Dương Ác, Lý Mậu Trinh, Lý Khắc Dụng, và Vương Kiến không công nhận Hậu Lương Thái Tổ, song phần còn lại của đế chế, trong đó có Vũ An quân của Mã Ân thì công nhận Hậu Lương Thái Tổ là tông chủ. Không lâu sau, vào tháng 4 ÂL, Hậu Lương Thái Tổ phong Mã Ân làm Sở vương. Đến tháng 8 ÂL cùng năm, Hậu Lương Thái Tổ bổ nhiệm Mã Ân kiêm Vũ Xương tiết độ sứ, giữ chức Chiêu thảo chế trí sứ ở lãnh thổ được bổ nhiệm; mặc dù ông không thực sự kiểm soát Vũ Xương quân.[2]

Cũng vào năm 907, Hoằng Nông vương Dương Ác phong Lưu Tồn (劉存) làm Tây Nam diện đô chiêu thảo sứ, bổ nhiệm Trần Tri Tân làm Nhạc châu đoàn luyện sứ, Lưu Uy (劉威) làm ứng viện sứ, cùng giám quân Hứa Huyền Ứng (許玄應) đem ba vạn thủy binh tiến công Sở. Mã Ân khiển Thành Đô chỉ huy sứ Tần Ngạn Huy đem 3 vạn thủy binh xuôi dòng Trường Giang, lệnh cho Thủy quân phó sứ Hoàng Phan (黃璠) suất hơn 300 chiến hạm đóng tại Dương Khẩu. Hạm đội Hoằng Nông gặp trở ngại do mưa lớn và nhiều lần bị Tần Ngạn Huy đánh bại. Do đó, Lưu Tồn viết thư cho Mã Ân, đề nghị đầu hàng, song Tần Ngạn Huy thuyết phục Mã Ân rằng Lưu Tồn thực chất chỉ trá hàng, và tiếp tục tiến công. Tần Ngạn Huy sau đó đánh bại Lưu Tồn, bắt được Lưu Tồn và Trần Tri Tân. Thoạt đầu, Mã Ân cố gắng thuyết phục Lưu Tồn và Trần Tri Tân quy phục và phụng sự cho ông, song sau khi bị từ chối, ông quyết định xử tử họ, Mã Ân đoạt lại được Nhạc châu. Sau đó, Mã Ân hợp binh với Bành Can nhằm chiếm thủ phủ Hồng châu của Trấn Nam quân, song không thành công. Tiếp đó, Mã Ân cùng người kế nhiệm Lôi Ngạn Uy là Lôi Ngạn Cung (雷彥恭) hợp binh tiến công Kinh Nam quân của Cao Quý Hưng, song liên quân bị đẩy lui.[2]

Sau khi lại thất bại trong việc công Giang Lăng, Lôi Ngạn Cung quay sang liên minh với Hoằng Nông, Hậu Lương Thái Tổ tước bỏ toàn bộ quan tước của Lôi Ngạn Cung và lệnh cho Cao Quý Hưng và Mã Ân tiến công Vũ Trinh quân. Cao Quý Hưng khiển bộ tướng Nghê Khả Phúc (倪可福) đem quân tiến công, còn Mã Ân thì phái Tần Ngạn Huy đi, bao vây thủ phủ Lãng châu của Vũ Trinh quân. Khi Lôi Ngạn Cung cầu viện Hoằng Nông, Dương Ác khiển Linh Nghiệp (泠業) và Lý Nhiêu (李饒) đem quân cứu viện Lôi Ngạn Cung. Mã Ân khiển Hứa Đức Huân đem binh kháng cự, kết quả Hứa Đức Huân giành được thắng lợi và bắt được Linh Nghiệp cùng Lý Nhiêu; hai người này sau đó bị Mã Ân xử tử. Vào mùa hè năm 908, không được Hoằng Nông cứu viện, Lãng châu thất thủ, Lôi Ngạn Cung chạy sang Hoằng Nông, Mã Ân thôn tính Lãng châu và Lễ châu[chú 26].[2]

Trong lúc này, Cao Úc nói với Mã Ân rằng một cách để làm giàu cho đất nước là bán trà đến các lãnh thổ nằm dưới quyền kiểm soát trực tiếp của triều đình Hậu Lương ở phương bắc. Mã Ân nghe theo, và đến tháng 7 ÂL thì Mã Ân tấu với Hậu Lương Thái Tổ để xin thiết lập hồi đồ vụ tại Biện châu[chú 27], Kinh châu[chú 28], Tương châu[chú 29], Đường châu[chú 30], Dĩnh châu[chú 31], và Phục châu[chú 32], nhằm dùng trà của Sở để đổi lấy tơ lụa và chiến mã, hứa sẽ triều cống 25 vạn cân trà mỗi năm cho triều đình, Hậu Lương Thái Tổ chấp thuận. Theo ghi chép, nhờ đó mà Sở bắt đầu trở nên giàu có, sung túc.[2] Tuy nhiên, cũng trong năm 908, Cao Quý Hưng cố gắng cắt đứt tuyến Đường mậu dịch của Sở bằng cách đóng quân tại Hán Khẩu[chú 33], Mã Ân khiển Hứa Đức Huân đem thủy quân tiến công, Cao Quý Hưng sợ hãi nên quay sang thỉnh hòa.[19]

Mùa thu năm 908, Mã Ân khiển Bộ quân đô chỉ huy sứ Lã Sư Chu (呂師周) đem binh tiến công Thanh Hải quân[chú 34] của tiết độ sứ Lưu Ẩn, chiếm được 6 châu: Chiêu châu[chú 35], Hạ châu[chú 36], Ngô châu[chú 37], Mông châu[chú 38], Cung châu[chú 39], và Phú châu[chú 40] từ tay Lưu Ẩn.[19]

Năm 909, Nguy Toàn Phúng (危全諷)- người kiểm soát bốn châu Phủ, Tín, Viên, Cát của Trấn Nam quân, trung tâm tại Phủ châu[chú 41] trong nhiều năm- xưng là Trấn Nam tiết độ sứ và tiến công Hồng châu. Khi Nguy Toàn Phúng cầu viện Mã Ân, Mã Ân khiển Chỉ huy sứ Uyển Mai (苑玫) cùng Viên châu thứ sử Bành Ngạn Chương (彭彥章) hợp binh bao vây Cao An[chú 42] nhằm phân tán quân Hoằng Nông. Sau khi Uyển Mai chiến bại và bị tướng Hoằng Nông là Chu Bản (周本) bắt được, quân Sở Triệt thoái. Ngoài ra, Bành Can từ bỏ Cát châu và chạy đến Đàm châu, Hoằng Nông thôn tính Cát châu. Mã Ân bổ nhiệm Bành Can làm Thần châu thứ sử, cho nhi tử là Mã Hy Phạm lấy nhi nữ của Bành Can làm thê.[19]

Năm 910, sau khi Mã Ân cầu được ban tước Thiên Sách thượng tướng (天策上將)- tước hiệu trước đó chỉ có Đường Thái Tông được nắm giữ- Hậu Lương Thái Tổ chấp thuận việc này. Sau đó, Mã Ân lập ra Thiên Sách phủ, cho đệ Mã Tung làm tả tướng và Mã Tồn làm Hữu tướng.[19]

Trong khi đó, các tù trưởng người Man là Tống Nghiệp (宋鄴) và Phan Kim Thịnh (潘金盛) ở Thần châu[chú 43] và Tự châu[chú 44] đem quân đến quấy rối các thành do Sở kiểm soát. Vào cuối năm 910, khi Tống Nghiệp tiến công Tương Hương[chú 45], và Phan Kim Thịnh tiến công Vũ Cương[chú 46], Mã Ân khiển Chu châu thứ sử Lã Chu đem 5.000 binh thảo phạt. Lã Chu ngay sau đó giết chết Phan Kim Thịnh,[19] và đến năm 912, Tống Nghiệp và một tù trưởng khác ở Thần châu là Xương Sư Ích (昌師益) suất chúng đầu hàng Mã Ân. Sau đó, Mã Ân bổ nhiệm Tống Nghiệp làm Thần châu thứ sử, bổ nhiệm Xương Sư Ích làm Tự châu thứ sử.[20]

Ninh Viễn[chú 47] tiết độ sứ Bàng Cự Chiêu (龐巨昭) và Cao châu[chú 48] phòng ngự sứ Lưu Xương Lỗ (劉昌魯) đẩy lui được một cuộc tiến công của Lưu Ẩn, song họ cho rằng bản thân không đủ lực để kháng cự với Lưu Ẩn trong một thời gian dài, do vậy quyết định viết thư cho Mã Ân đề nghị dâng lãnh thổ cho Mã Ân. Mã Ân rất hài lòng, khiển Hoàng châu thứ sử Diêu Ngạn Chương (姚彥章) đem quân đi nghênh đón họ. Mã Ân bổ nhiệm Lưu Xương Lỗ làm Vĩnh Thuận tiết độ phó sứ, cho Diêu Ngạn Chương quản lý sự vụ ở Dung châu (容州)- thủ phủ của Ninh Viễn quân,[19] và sau đó thăng làm Ninh Viễn tiết độ phó sứ. Tuy nhiên, vào năm 911, khi Lưu Ẩn đem quân tiến công, Diêu Ngạn Chương nhận định sai lầm rằng không thể trụ lại được (mặc dù quân cứu viện của Hứa Đức Huân đang đến), do đó Diêu Ngạn Chương quyết định đưa sĩ dân Dung châu về Sở, Lưu Ẩn đoạt được Dung châu và Cao châu. Mặc dù Sở chiến bại, song Hậu Lương Thái Tổ vẫn bổ nhiệm Mã Ân làm tiết độ sứ của ba quân Vũ An-Vũ Xương-Tĩnh Giang-Ninh Viễn, Hồng-Ngạc tứ diện hành doanh đô thống. Tuy nhiên, vì không muốn trông thấy chiến tranh giữa hai chư hầu, Hậu Lương Thái Tổ khiển sứ giả đến hòa giải giữa Mã Ân và Lưu Ẩn.[20]

Sau thời Hậu Lương Thái Tổ

Năm 912, tướng Ngô (tức Hoằng Nông) là Hoài Nam tiết độ phó sứ Trần Chương (陳璋) đem thủy quân tập kích Nhạc châu của Sở, bắt Nhạc châu thứ sử Uyển Mai. Khi Mã Ân khiển Thủy quân đô chỉ huy sứ Dương Định Chân (楊定真) đem quân tái chiếm Nhạc châu, quân Ngô chuyển hướng tiến về Kinh Nam. Để ngăn ngừa việc Mã Ân cứu viện Kinh Nam, Phủ châu thứ sử Lưu Tín (劉信) của Ngô suất binh từ năm châu: Giang, Phủ, Tín, Viên, Cát đến đóng tại Cát châu, nhằm gây áp lực cho Mã Ân. Sau khi Trần Chương không thể chiếm được Giang Lăng, quân Ngô triệt thoái. Năm 913, Ninh Viễn tiết độ sứ Diêu Ngạn Chương (mặc dù lúc này Sở đã để mất Ninh Viễn) đem thủy quân tiến công Ngạc châu- thủ phủ của Vũ Xương quân, Ngô khiển Trì châu đoàn luyện sứ Lã Sư Tạo (呂師造) cự chiến, Diêu Ngạn Chương triệt thoái.[20]

Cũng vào năm 913, người kế nhiệm Lưu Ẩn là Lưu Nghiễm đề nghị Mã Ân gả một nhi nữ cho ông ta, Mã Ân chấp thuận.[20] (Hòa thân được thiết lập vào năm 915, khi Mã Ân khiển Mã Tồn hộ tống Mã thị đến lãnh thổ của Lưu Nghiễm.)[21]

Năm 914, Viên châu[chú 49] thứ sử Lưu Sùng Cảnh (劉崇景) của Ngô dâng châu hàng Mã Ân. Mã Ân khiển tướng Hứa Trinh (許貞) đem 1 vạn lính đến tăng viện. Tuy nhiên, đến khi các tướng Ngô là Sài Tái Dụng (柴再用) và Mễ Chí Thành (米志誠) đem quân tiến công, Lưu Sùng Cảnh và Hứa Trinh quyết định bỏ Viên châu, triệt thoái về Sở.[21]

Năm 916, Tấn vương Lý Tồn Úc lúc này thôn tính được toàn bộ Hà Bắc [lãnh thổ ở bờ bắc Hoàng Hà] trong cuộc chiến tranh với Hậu Lương. Mặc dù mang địa vị là chư hầu của Hậu Lương, Mã Ân lại khiển sứ giả sang Tấn thông hảo, Tấn vương cũng khiển sứ đáp lễ.[21]

Năm 918, Lưu Tín bao vây Kiền châu[chú 50] của quân phiệt Đàm Toàn Bá (譚全播), Đàm Toàn Bá cầu viện từ cả ba nước là chư hầu của Hậu Lương: Ngô Việt của Tiền Lưu, Mân của Vương Thẩm Tri và Sở. Tiền Lưu khiển nhi tử là Tiền Truyền Cầu (錢傳球) tiến công Tín châu[chú 51]; Mã Ân khiển tướng Trương Khả Cầu (張可求) đem một vạn quân đến đóng tại Cổ Đình[chú 52]; và Vương Thẩm Tri thì phái quân tiến đến Vu Đô[chú 53], đều nhằm cứu viện Đàm Toàn Bá. Tuy nhiên, quân Ngô Việt bị Tín châu thứ sử Chu Bản đẩy lui, sau đó Lưu Tín phái một đội quân đi đẩy lui quân Sở. Khi quân Ngô Việt và quân Mân biết tin quân Sở bị đẩy lui, họ cũng triệt thoái, Đàm Toàn Bá nay không còn cứu viện.[22]

Năm 919, quân Sở tiến công Kinh Nam, Cao Quý Hưng cầu viện Ngô. Ngô khiển Lưu Tín tiến thẳng đến Đàm châu, trong khi khiển Lý Giản (李簡) tiến công Phục châu của Sở. Lý Giản bắt được Phục châu thứ sử Bảo Đường (鮑唐), đại quân Sở hay tin Lưu Tín tiến đến thì triệt thoái khỏi Kinh Nam.[22]

Năm 920, Tiền Lưu đề nghị Mã Ân gả một nhi nữ cho nhi tử Tiền Truyền Túc (錢傳璛) của ông ta, Mã Ân chấp thuận.[23]